SỞ TƯ PHÁP THÀNH PHỐ HÀ NỘI
CÔNG TY LUẬT TNHH TLK
Tel: 0243 2011 747 Hotline: 097 211 8764

HIỂU KHÁI QUÁT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG?

CÂU HỎI

Kính chào công ty Luật TNHH TLK, kính mong được Quý Công ty giải đáp các vấn đề liên quan tới trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như căn cứ nào phát sinh trách nhiệm này, cũng như các nguyên tắc bồi thường thiệt hại? Xin chân thành cảm ơn Quý Công ty.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

1. Mức phạt vi phạm hợp đồng

2. Phân biệt hợp đồng đơn vụ và hợp đồng song vụ

3. Hợp đồng in (văn hóa phẩm)

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty Luật TNHH TLK, trên cơ sở quy định pháp luật và thực tiễn giải quyết, chúng tôi xin gửi tới bạn nội dung tư vấn như sau:

CƠ SỞ PHÁP LÝ 

1. Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015 

2. Các văn bản pháp luật khác hướng dẫn có liên quan 

NỘI DUNG TƯ VẤN 

Quan hệ bồi thường thiệt hại là một nhóm quan hệ quan trọng, thiết yếu bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia, giúp khôi phục lợi ích bên bị thiệt hại, từ đó đảm tính công bằng, ổn định của pháp luật. Trong đời sống hàng ngày, có rất nhiều vấn đề làm phát sinh trách nhiệm bồi thường hại thiệt hại ngoài hợp đồng. Vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được pháp luật quy định như thế nào? Thông qua câu hỏi của Quý vị, Công ty chúng tôi sẽ cung cấp những thông tin khái quát về vấn đề qua bài viết dưới đây.

hieu-khai-quat-ve-trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-ngoai-hop-dong

Ảnh 1. Hiểu khái quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng _ Hotline: 097 211 8764

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ QUAN TRỌNG LIÊN QUAN ĐẾN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG 

1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

Thông thường trách nhiệm pháp lý nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải có đủ điều kiện phát sinh, trong đó hành vi trái pháp luật và lỗi là yếu tố bắt buộc. Tuy nhiên, trong trách nhiệm dân sự yếu tố lỗi có thể được suy đoán mà không cần chứng minh. Theo lý thuyết thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại có 04 điều kiện phát sinh:

1.1. Có thiệt hại xảy ra

Thiệt hại xảy ra là tiền đề, là điều kiện tiên quyết của trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi mục đích của loại trách nhiệm này là nhằm khắc phục thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra, khôi phục lại tình trạng như ban đầu cho chủ thể bị vi phạm. Thiệt hại được hiểu là những tổn thất, mất mát về mặt vật chất hoặc tinh thần mà người có hành vi gây thiệt hại đã gây ra đối với chính người bị thiệt hại hay cả với những người thân thích của họ. Vì thiệt hại là điều kiện bắt buộc phải có trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nên không có thiệt hại thì không phải bồi thường.

Thiệt hại xảy ra bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại về vật chất được hiểu là những mất mát về tài sản, thể chất mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Còn thiệt hại về tinh thần là sự tổn thất về giá trị tinh thần, tình cảm hoặc sự suy sụp về tâm lý, tình cảm của cá nhân. Hình thức biểu hiện thiệt hại về tinh thần rất đa dạng như: Sự suy sụp tâm lý của người bị thiệt hại sau khi sức khỏe bị xâm phạm; những người thân thích của người bị xâm phạm tính mạng suy sụp, hoang mang, lo lắng, đau buồn... Trong khi việc xác định thiệt hại vật chất khá rõ ràng, chi tiết, cụ thể thì việc xác định thiệt hại tinh thần phức tạp và khó khăn hơn vì thiệt hại về tinh thần là những thiệt hại phi vật chất, không có tiêu chí chung để xác định cho mọi cá nhân bởi điều kiện, hoàn cảnh của từng cá nhân là không giống nhau.

Thiệt hại xảy ra trên thực tế vô cùng đa dạng, phong phú, Việc định ra một mức bồi thường cụ thể là bao nhiêu phải dựa trên thiệt hại thực tế đã xảy ra. Bởi vậy, việc xác định chính xác thiệt hại xảy ra là cơ sở quan trọng để xác định chính xác mức bồi thường trong từng vụ việc. Khi xác định thiệt hại cần phải dựa trên những căn cứ khách quan để tính ra một khoản bổi thường cụ thể, chính xác.

1.2. Có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại

Hành vi gây thiệt hại có thể là hành vi hành động hoặc không hành động. Hành động gây thiệt hại có thể tác động trực tiếp Vào người bị thiệt hại hoặc tác động gián tiếp thông qua công cụ, phương tiện gây thiệt hại. Không hành động gây thiệt hại là một hình thức của hành vi gây thiệt hại, nó làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại cho khách thể bằng việc chủ thể không làm một việc pháp luật quy định bắt buộc phải làm mặc dù có đầy đủ điều kiện làm việc đó.

Không phải trong mọi trường hợp hành vi gây thiệt hại đều là hành vi trái pháp luật mà hành vi gây thiệt hại có thể là hành vi hợp pháp nếu người thực hiện hành vi đó theo nghĩa vụ mà pháp luật quy định hoặc nghề nghiệp buộc họ phải thực hiện các hành vị đó (ví dụ, bác sĩ cắt bỏ bộ phận cơ thể người hoặc làm các phẫu thuật)... Trong những trường hợp này người gây thiệt hại không phải bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, người gây thiệt hại không phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng, trong tình thế cấp thiết hoặc trong trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại.

1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật

Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật phải là nguyên nhân trực tiếp hoặc có ý nghĩa quyết định đối với thiệt hại xảy ra. Việc xác định đúng mối quan hệ nhân quả có ý nghĩa pháp lý trong việc áp dụng pháp luật, xác định đúng trách nhiệm của cá nhân, tổ chức vi phạm, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người bị thiệt hại và bảo đảm công bằng xã hội. Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp là rất khó khăn. Do đó cần phải xem xét, phân tích, đánh giá tốt cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan và toàn diện để từ đó rút ra đúng nguyên nhân và xác định đúng trách nhiệm của người gây thiệt hại.

1.4. Người gây thiệt hại có lỗi

Xét về hình thức thì lỗi là thái độ tâm lý của người thực hiện hành vi gây ra thiệt hại. Lỗi được thể hiện dưới hai dạng là lỗi cố ý và lỗi vô ý.

+ Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.

+ Lỗi vô ý là trường hợp một người không thể thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết trước hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

Những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình như người không có năng lực hành vi dân sự, người mất năng lực hành vi dân sự thì không có lỗi trong việc thực hiện hành vi gây thiệt hại nên họ không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này thì cha mẹ, người giám hộ, bệnh viện, trường học là những người theo quy định của pháp luật phải chăm sóc, giáo dục, quản lý người gây thiệt hại... được suy đoán là có lỗi khi không thực hiện nghĩa vụ trên và họ phải chịu trách nhiệm do lỗi của mình.

Lỗi của pháp nhân, cơ quan nhà nước trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định thông qua lỗi của nhân viên các cơ quan này trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Vì vậy, các cơ quan này phải bồi thường thiệt hại do thành viên của họ gây ra khi thực hiện nhiệm vụ được giao.

Lỗi là yếu tố cần phải xem xét khi xác định trách nhiệm pháp lý nói chung và trách nhiệm dân sự nói riêng. Tuy nhiên trong một số trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường ngay cả khi không có lỗi theo quy định tại Điều 601, Điều 604, Điều 605 Bộ luật Dân sự 2015. Những trường hợp này được coi là trách nhiệm khách quan của chủ sở hữu tài sản mà pháp luật quy định dựa trên nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu.

Theo nguyên tắc chung, mọi trách nhiệm pháp lý đều phải có yếu tố lỗi. Nếu không có lỗi thì không phải chịu trách nhiệm pháp lý trừ một số trường hợp luật quy định cụ thể như trách nhiệm dân sự do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Vấn đề mới của Bộ luật Dân sự 2015 là “lỗi suy đoán”, có nghĩa là gây thiệt hại là có lỗi mà không cần phải chứng minh. Người gây thiệt hại chứng minh rằng do bất khả kháng, do lỗi cố ý của người bị hại có nghĩa là họ không có lỗi cho nên không phải bồi thường. Tuy nhiên, trong trách nhiệm dân sự thì yếu tố lỗi có thể được xác định cụ thể nhưng cũng có thể suy đoán là lỗi cố ý hoặc vô ý. Yếu tố lỗi có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm dân sự và trong việc xét giảm mức bồi thường thiệt hại.

Bộ luật Dân sự 2015 quy định về căn cứ loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người gây thiệt hại. Theo đó, người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hai trường hợp sau:

- Trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng: đây là những sự kiện mang tính chất khách quan mà người gây thiệt hại không thể lường trước dược và mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết nhưng cũng không thể tránh được thiệt hại xảy ra.

- Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác: trường hợp này nguyên nhân chính gây ra thiệt hại là hành vi cố ý của người bị hại, cho nên người gây thiệt hại không phải bồi thường thiệt hại. Ví dụ, A đang lái xe trên đường (tuân thủ đúng mọi quy định về điều khiển phương tiện giao thông do luật quy định) thì B lao đầu vào xe A để tự tử. Hoặc trường hợp người gây thiệt hại không phải bồi thường thiệt hại do pháp luật quy định. Ví dụ, tàu hỏa cán phải người đang ngủ trên đường ray.

Nguyên nhân gây ra thiệt hại có thể là do hành vi của con người hoặc có thể do tài sản gây ra. Chủ sở hữu, người sử dụng tài sản có quyền khai thác, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản, tuy nhiên nếu tài sản gây ra thiệt hại thì chủ sở hữu, người sử dụng phải bồi thường thiệt hại. Khi tài sản gây thiệt hại thì yếu tố lỗi của người quản lý được suy đoán là bất cẩn trong việc trông coi quản lý tài sản.

2. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại 

Căn cứ theo Bộ luật Dân sự 2015, khi có thiệt hại thực tế xảy ra thì bên bồi thường và bên bị thiệt hại có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường. Nếu các bên không thỏa thuận được thì việc giải quyết bồi thường sẽ được thực hiện theo nguyên tắc sau đây:

2.1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời

Bồi thường toàn bộ được hiểu là trên thực tế xảy ra những thiệt hại nào thì người chịu trách nhiệm bồi thường phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đó. Bồi thường kịp thời là việc bồi thường được tiến hành một cách khẩn trương, nhanh chóng ngay sau khi có thiệt hại xảy ra nhằm khắc phục tổn thất cho người bị thiệt hại.

2.2. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình

Theo nguyên tắc của việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì thiệt hại bao nhiêu phải bồi thường bấy nhiêu. Tuy nhiên, trên thực tế có những trường hợp nếu áp dụng nguyên tắc trên sẽ không mang lại hiệu quả trong việc áp dụng pháp luật vì người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không thể bồi thường toàn bộ thiệt hại. Cho nên, pháp luật dữ liệu các trường hợp giảm mức bồi thường thiệt hại cho người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Để được giảm mức bồi thường thiệt hại cần có hai điều kiện sau:

+ Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không có lỗi hoặc có lỗi vô ý. Tức là người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không lường trước được hành vi của mình sẽ gây ra thiệt hại cho chủ thể khác.

+ Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế của người chịu trách nhiệm bồi thường. Điều này có nghĩa là kết tại thời điểm bồi thường cũng như trong tương lai thì người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không có khả năng kinh tế để bồi thường phần lớn hay toàn bộ thiệt hại mà mình đã gây ra. Đây là một quy định mang tính nhân văn cũng như mang tính hỗ trợ cao cho việc thực thi pháp luật.

2.3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường

Bên gây thiệt hại hoặc bên bị thiệt hại có thể yêu cầu thay đổi mức bồi thường khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế. Nghĩa là do có sự thay đổi về tình hình kinh tế, xã hội, sự biến động về giá cả hoặc do có sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại hoặc do có sự thay đổi về khả năng kinh tế của người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại... mà mức bồi thường đang được thực hiện không còn phù hợp trong điều kiện thực tế. Khi xảy ra những điều kiện trên, thì người bị thiệt hại hoặc người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.

2.4. Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra

Đây là trường hợp người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây ra thiệt hại xảy ra với chính họ. Do đó, với những thiệt hại xảy ra tương ứng với mức độ lỗi của họ thì không được bồi thường.

2.5. Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình

Nguyên tắc này nâng cao trách nhiệm của bên bị thiệt hại, nhằm hạn chế thấp nhất các trường hợp bên bị thiệt hại để mặc cho thiệt hại xảy ra nhằm được hưởng bồi thường.

3. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân

Theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 thì người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường. Đây là những người có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình nên phải chịu trách nhiệm về hành vi gây thiệt hại do mình gây ra.

Đối với cá nhân là người chưa thành niên gây thiệt hại thì việc xác định năng lực bồi thường theo hai khả năng sau:

- Nếu người gây thiệt hại dưới mười lăm tuổi thì người chịu trách nhiệm bồi thường là cha, mẹ của người đó, trong trường hợp tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà người con đã gây ra thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản của con để bồi thường phần còn thiếu. Nếu người con không có tài sản riêng thì cha, mẹ của người gây thiệt hại phải tiếp tục thực hiện việc bồi thường khi có tài sản;

- Nếu người gây thiệt hại đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi thì người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại bằng tài sản của mình. Nếu tài sản không đủ để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu. Theo quy định của pháp luật lao động, người từ đủ mười lăm tuổi tới chưa đủ mười tám tuổi có thể tham gia vào quan hệ lao động trong một số lĩnh vực, cho nên lứa tuổi này có thể tạo ra thu nhập cho bản thân, vì vậy phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu có tài sản.

Pháp luật hiện hành chưa có quy định về phương thức lấy tài sản của cha, mẹ đã ly hôn để bồi thường thay cho con chưa thành niên. Tuy nhiên theo nguyên tắc bình đẳng, tự do thỏa thuận thì phân tài sản mà cha, mẹ phải bồi thường thay cho người chưa thành niên sẽ được phân chia theo sự thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì phần bồi thường sẽ được lấy theo tỷ lệ bằng nhau, có tính đến khả năng kinh tế của mỗi người.

Đối với trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì việc xác định trách nhiệm bồi thường được tiến hành như sau:

- Nếu người gây thiệt hại có đủ tài sản để bồi thường toàn bộ thiệt hại thì người giám hộ lấy tài sản của họ để bồi thường;

- Nếu người gây thiệt hại không có tài sản hoặc tài sản không đủ để bồi thường thì người giám hộ phải lấy tài sản của mình để bồi thường trừ trường hợp họ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ.

4. Bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra

Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.”

Như vậy, khi nhiều người cùng gây thiệt hại thì phải liên đới bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Người bị thiệt hại có quyền yêu cầu một trong những người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.

Khi xác định trách nhiệm liên đới của nhiều người cần phải xem xét các điều kiện sau đây:

4.1. Có hành vi gây thiệt hại của nhiều người

Trong trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại thì bên bị thiệt hại có thể là một người hoặc nhiều người, tuy nhiên bên gây thiệt hại phải là nhiều người cùng gây thiệt hại (tối thiểu là phải có hai người). Hành vi gây thiệt hại của nhiều người phải là hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại.

4.2. Những người gây ra thiệt hại có sự thống nhất ý chí hoặc cùng gây hậu quả

Sự thống nhất ý chí thể hiện những người gây thiệt hại thực hiện hành vi với cùng một mục đích là gây tổn thất cho đối tượng bị thiệt hại. Những người gây thiệt hại có sự bàn bạc, thống nhất về phương thức, về hành vi gây thiệt hại và hậu quả xảy ra...

Cùng gây thiệt hại có thể là cùng thực hiện hành vi hợp pháp nhưng không may gây ra thiệt hại cho người khác. Hành vi của những người gây thiệt hại có mối liên kết chặt chẽ với nhau nếu thiếu một hành vi thì thiệt hại không thể xảy ra (ví dụ, một người chặt cành cây và một người dùng dây kéo để di chuyển cành cây nhưng không may dây đứt làm cành cây và quyết gây thiệt hại về tài sản cho người khác...).

4.3. Những người cùng thực hiện hành vi gây thiệt hại đều có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý

Lỗi là thái độ chủ quan của người gây thiệt hại, là sự thể hiện ý chí của người đó khi thực hiện hành vi gây thiệt hại. Về nguyên tắc, một người chỉ phải chịu trách nhiệm pháp lý khi họ có lỗi, tức là có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Nghĩa là khi nhiều người cùng thực hiện hành vi gây thiệt hại thì tất cả những người đó đều có lỗi trong khi thực hiện hành vi của mình. 

Do vậy, nếu nhiều người cùng thực hiện hành vi gây thiệt hại mà trong đó có người không có khả năng nhận thức và làm chủ hành vị của mình thì họ không bị coi là có lỗi và không phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.

4.4. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của những người cùng gây thiệt hại với hậu quả xảy ra

Hành vi gây thiệt hại của những người cùng gây thiệt hại có thể khác nhau về mức độ nhưng cũng đem lại hậu quả là gây thiệt hại cho người khác. Thiệt hại xảy ra chính là kết quả trực tiếp, tất yếu từ những hành vi của những người gây ra thiệt hại.

Khi nhiều người cũng gây thiệt hại thì họ phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Phần bồi thường của mỗi người được xác định trên cơ sở mức độ lỗi của từng người. Tuy nhiên, nếu không thể xác định được mức độ lỗi của mỗi người thì những người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.

hieu-khai-quat-ve-trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-ngoai-hop-dong

Ảnh 2. Hiểu khái quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng_Hotline: 097 211 8764

II. BẠN NÊN LỰA CHỌN MỘT TỔ CHỨC CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ NHƯ THẾ NÀO LÀ TỐT NHẤT?

Thứ nhất: Phải là tổ chức pháp lý chính thống, có giấy phép hoạt động hợp pháp;

Thứ hai: Có Ban lãnh đạo phải là luật sư, giàu kinh nghiệm và có học vị cao thì càng tốt;

Thứ ba: Có đội ngũ luật sư, hệ thống nhân sự bài bản, chuyên nghiệp, được đào tạo kỹ lưỡng;

Thứ tư: Thân thiện, tận tâm và nỗ lực hết sức vì lợi ích của khách hàng. Coi sự hài lòng của khách hàng, chất lượng công việc là danh dự của chính mình;

Thứ năm: Quy trình cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp, chu đáo, linh hoạt và logic để tối ưu hóa hiệu suất công việc, đồng thời tiết kiệm tối đa thời gian của khách hàng;

Thứ sáu: Giá dịch vụ hợp lý, cạnh tranh;

Thứ bảy: Dịch vụ phong phú cả về lĩnh vực cung cấp tới các gói dịch vụ trong cùng một lĩnh vực để khách hàng lựa chọn gói dịch vụ phù hợp, cũng như có thể hỗ trợ toàn diện cho khách hàng trong suốt quá trình hoạt động;

Thứ tám: Có năng lực Kết nối – Xúc tiến quan hệ thương mại cho khách hàng nếu khách hàng có nhu cầu,...

Việc tìm kiếm cho mình một tổ chức tư vấn pháp lý toàn diện, chuyên nghiệp và uy tín là điều mà bất cứ khách hàng nào cũng mong muốn. Bởi không ai muốn bị rủi ro thiệt hại cả về tài chính lẫn thời gian mà kết quả lại không đạt được như kỳ vọng. Tuy nhiên để tìm được tổ chức như vậy thì không phải là điều dễ dàng bởi số lượng đơn vị cấp dịch vụ tại thị trường Việt Nam hiện nay là rất nhiều với chất lượng khác nhau.

Một gợi ý cho bạn rằng, Công ty Luật TNHH TLK của chúng tôi tuy không dám nhận là công ty cung cấp dịch vụ pháp lý tốt nhất thị trường nhưng Chúng tôi thỏa mãn tất cả các tiêu chí nêu trên và còn nhiều hơn thế, chắc chắn sẽ là một sự lựa chọn tốt cho Quý vị.

III. MỘT SỐ CÂU HỎI LIÊN QUAN TỚI TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG 

Câu hỏi 1: Xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì có phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không?

Trả lời:

Câu trả lời là có.

Bộ luật Dân sự 2015 quy định: "Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác." 

Do vậy, cũng giống như tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, danh dự, nhân phẩm, uy tín cũng là một căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Câu hỏi 2: Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là bao lâu?

Trả lời:

Theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015, người yêu cầu có thể khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại trong thời hiệu là 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

hieu-khai-quat-ve-trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-ngoai-hop-dong

Ảnh 3. Hiểu khái quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng_Hotline: 097 211 8764

Trên đây là một số nội dung tổng hợp tư vấn mà Chúng tôi xin dành tới Quý Khách hàng. với tư cách là đơn  vị cung cấp dịch vụ, chúng tôi luôn thấu hiểu và sẵn sàng đồng hành giải quyết những nhu cầu cũng như những khó khăn mà Quý Khách hàng đang gặp phải. Nếu còn vướng mắc hoặc cần tư vấn chuyên sâu hơn, Quý Khách hàng vui lòng liên hệ tới số Hotline: 097 211 8764 được luật sư tư vấn trực tiếp (tư vấn hoàn toàn miễn phí).

Xin chân thành cảm ơn Quý vị!

Phòng Tố tụng – Công ty Luật TNHH TLK

CÔNG VIỆC LUẬT TLK THỰC HIỆN

1. Tư vấn cho Quý khách hàng tất cả các vấn đề pháp lý liên quan tới đời sống xã hội, cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và nhà đầu tư.

2. Cung cấp tới Quý Khách hàng, đại diện thực hiện tất cả các dịch vụ pháp lý liên quan tới đời sống xã hội, cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và nhà đầu tư.

CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI

1. Hỗ trợ cho Quý Khách hàng trong việc kết nối – xúc tiến thương mại trong quá trình hoạt động.

2. Chiết khấu % phí dịch vụ khi Quý Khách hàng sử dụng dịch vụ lần thứ hai.

3. Chăm sóc tư vấn pháp lý miễn phí về pháp luật doanh nghiệp trong một năm (nếu Quý Khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp).

4. Chăm sóc, tư vấn pháp lý miễn phí về pháp luật thuế - kế toán cho doanh nghiệp trong vòng một năm (nếu Quý Khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp).

5. Cung cấp hệ thống quản trị nội bộ doanh nghiệp (nếu Quý Khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp).

CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI MỚI NHẤT TẠI ĐÂY

Chúng tôi luôn sẵn sàng làm người bạn đồng hành, tận tâm và là điểm tựa pháp lý vững chắc cho Quý Khách hàng.

Kính chúc Quý Khách hàng sức khỏe cùng sự phát triển thịnh vượng!

Trong trường hợp có nhu cầu cần tư vấn, sử dụng dịch vụ Quý Khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi theo thông tin dưới đây: 

CÔNG TY LUẬT TNHH TLK

- ĐT: 0243 2011 747                           Hotline: 097 211 8764

- Email: info@tlklawfirm.vn              Website: tlklawfirm.vn

VIẾT BÌNH LUẬN CỦA BẠN:

LIÊN HỆ CUNG CẤP DỊCH VỤ (Vui lòng click vào nút dưới đây để chọn gói dịch vụ)

×
CÔNG TY LUẬT TNHH TLK
Giấy phép hoạt động số: 01021852/TP/ĐKHĐ cấp bởi Sở Tư pháp TP. Hà Nội
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT 24/7
GỌI NGAY: 097 211 8764
Vì trách nhiệm cộng đồng - Tư vấn hoàn toàn miễn phí
SỐ LƯỢT TRUY CẬP
Tổng lượt truy cập: 9.605.425
Xem trong ngày: 3.452
Đang xem: 60
popup

Số lượng:

Tổng tiền:

zalo